BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH: TỰ HÀO MỘT LỊCH SỬ

 

Nối tiếp truyền thống 119 năm tồn tại, phát triển và trên nền tảng kế thừa thành tựu của những thế hệ đi trước, Đảng bộ Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch quyết tâm xây dựng bệnh viện dựa trên giá trị cốt lõi “Phát triển – Nhân văn – Thiện nguyện”.

        Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch được thành lập từ năm 1906, ban đầu là một bệnh viện tư nhân và mang tên Bệnh viện Drouhet. Cái tên Drouhet được đặt theo F. Drouhet lúc đó giữ chức thị trưởng thành phố Chợ Lớn (le maire de la ville de Cholon). Trải qua thời gian, Bệnh viện Drouhet đổi tên thành Bệnh viện Nguyễn Văn Thinh, Bệnh viện Hồng Bàng, trung tâm lao và bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch và đến nay mang tên Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

        Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện chuyên khoa hạng 1 về Lao và bệnh Phổi, được xếp cấp chuyên môn kỹ thuật ở cấp: “khám bệnh, chữa bệnh chuyên sâu” trực thuộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh. Theo Thông báo số 231/TB-SYT ngày 07/01/2025 của Sở Y tế Tp. Hồ Chí Minh về kết quả xếp cấp chuyên môn kỹ thuật các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và Quyết định số 2024/QĐ-UBND ngày 21/05/2025 của Ủy Ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh về việc xếp hạng Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trực thuộc Sở Y tế.

          Theo quyết định phân công công tác chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, ban hành kèm theo Quyết định số 4026 /QĐ-BYT ngày 20 tháng 10 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện đầu ngành, phụ trách chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh cho chuyên khoa Lao và Bệnh Phổi các tỉnh/thành phố Miền Nam. Bệnh viện là cơ sở thực hành của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Học viện Quân Y, Khoa Y Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Y Đại học Tân Tạo,…

1          Bối cảnh lịch sử

1.1        Người Pháp đến An Nam

Hình. Đất Nam Kỳ vào đầu thời nhà Nguyễn, cho đến trước năm 1841.

(Nguồn: Wikipedia)

        Trong dân gian, còn chia thành ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

Hình. Bản đồ Nam Kỳ lục tỉnh năm 1888.

(Nguồn: wikipedia)

        Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chiếm bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Tại đây Pháp chủ trương thực hiện phương án “đánh nhanh thắng nhanh” nhưng vấp phải kế sách “vườn không nhà trống” và sự chống trả của quân triều Nguyễn (dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Tri Phương) và người dân địa phương. Sau nhiều lần đánh chiếm Sơn Trà không thành, 5 tháng sau Pháp chuyển hướng chiến lược sang Gia Định. Sáng 17/02/1859, sau khi bắn phá 12 đồn dọc hai bờ sông và 3 cảng trên sông Sài Gòn, quân Pháp công hãm thành Gia Định, đến 10 giờ cùng ngày thì thành Gia Định thất thủ. Mục đích chọn Gia Định là bởi Gia Định xa Trung Quốc, sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh, xa kinh đô Huế sẽ tránh được tiếp viện của triều đình. Chiếm được Gia Định sẽ chiếm được kho lúa gạo. Hơn nữa, từ Gia Định sẽ dễ dàng theo sông Cửu Long đánh ngược lên Campuchia, làm chủ lưu vực sông Mê-Kông.

        Từ ngày 8/5 – 18/11/1860, thực dân Pháp tấn công tuyến phòng thủ Thuận An – Huế. Ngày 12/4/1861, Pháp chiếm Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Ngày 9/12/1861, Pháp chiếm Côn Đảo. Từ ngày 16 – 18/12/1861, Pháp đánh chiếm Biên Hoà. Từ ngày 21 – 23/3/1862, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long. Ngày 5/5/1862, Pháp chiếm Thuận An – Huế để gây sức ép buộc triều đình Huế kí hiệp ước Nhâm Tuất (1862) nhượng 3 tỉnh miền Đông là Gia Định, Định Tường, Biên Hoà và đảo Côn Sơn.

Hình. Liên bang Đông Dương thuộc Pháp vào đầu 1900’s- Map of Siam & Indochine (Vietnam – Cambodia – Laos).

(Nguồn wikipedia)

1.2        Chợ Lớn – Trung tâm giao thương sầm uất

        Trước năm 1698, ở Đề Ngạn (mà sau này gọi là Chợ Lớn) đã có làng Minh Hương của người Hoa (vì không thần phục nhà Thanh, họ đã rời bỏ Trung Quốc sang định cư ở miền Nam Việt Nam). Tuy nhiên, vùng đất ấy trở nên đông đúc kể từ khi người Hoa ở Cù Lao Phố (tức Biên Hòa ngày nay) chạy tới đây lánh nạn sau khi nơi ở của họ bị quân Tây Sơn tàn phá năm 1776. Tỉnh Chợ Lớn được chính quyền thực dân Pháp thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1899, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 và bị mất tên gọi đơn vị hành chính cấp tỉnh kể từ ngày 22 tháng 10 năm 1956 cho đến nay.

        Người Pháp lên nên Sài Gòn, một từ biến âm từ chữ cây gon (cây gạo) của người An Nam. Về mặt hành chính, Sài Gòn và Chợ Lớn phân biệt với nhau về mặt hành chính nhưng về mặt kinh tế cả hai là một tụ điểm dân cứ duy nhất.

(Nguồn: báo Tuổi Trẻ)

        Chợ Lớn vốn mang tên Chợ Sài Gòn do người Minh Hương thành lập từ năm 1778. Người Minh Hương trung thành với nhà Minh chống lại nhà Thanh nên trốn xuống miền Nam. Họ theo chúa Nguyễn đánh Tây Sơn và có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi về phía Nam.Vì thế Vua Gia Long trao cho họ nhiều đặc ân như quyền tự trị, nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng thuế thân. Các đời vua sau tiếp tục duy trì. Nhờ thế ngay từ thời Nguyễn, Chợ Lớn đã trở thành khu thu hút Hoa kiều đến lập nghiệp làm ăn buôn bán. Với địa thế vô cùng thuận lợi cho việc xuất nhập cảng nơi này đã trở thành một đặc khu thương mại nổi tiếng trong vùng. Paul Doumer cũng đã mô tả sự đông đúc, náo nhiệt và tiến bộ của Chợ Lớn: “Điều đáng ngạc nhiên là Chợ Lớn là một thành phố sạch sẽ, nề nếp, mọi thứ như ở châu Âu, mặc dù có một số được phố giống kiều phương Đông, người đông như kiến. Người Pháp cho tới nay cũng chỉ đạt kết quả như vậy”.

        Tác giả Andre Surmer đã miêu tả Chợ Lớn vào năm 1941 nhưng là “một thương điếm mênh mông, một nơi hội tụ dân tứ chiếng”, “một trung tâm hoạt động thương thảo và giàu có”, “mặc dù dân đông đến mức gây cảm giác chen chúc, nhung nhúc, thành phố Tàu này (Chợ Lớn) là nơi thanh bình, có kỷ cương”. (Tuần san Indochine số 7, phát hành ngày 2/01/1941)

        Paul Doumer là toàn quyến Đông Dương (1897 – 1902) trong tác phẩm nổi tiếng về Xứ Dông Dương (xuất bản lần đầu năm 1905) đã miêu tả về hai đô thị lớn nhất Nam Kỳ: “Chỉ có hai thành phố Nam Kỳ xức với tên “thành phố”: Sài Gòn, thành phố hành chính, hàng hải và quận sự do người Pháp tạo lập; và Chợ Lớn, thành phố thương mai và công nghiệp, đã tồn tại trước khi chúng ta tới và có thể nói mang đặc trưng Châu Á hơn đặc trưng An Nam”.

        Chợ Lớn từng là một đặc khu thương mại lớn nhất Đông Nam Á, một khu vực thịnh vượng nhất của người Hoa hải ngoại, nổi tiếng hơn Singapore, ngang tầm với Hong Kong và Thượng Hải.

Hình. Thuyền bè và nhà xưởng đã xuất hiện nhiều bên bờ kênh ở Chợ Lớn giữa thế kỷ XIX minh chứng về Chợ Lớn là một khu vực sầm uất của khu vực. (Emile Gsell,1866)

        Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương, tất cả các hạt tham biện (arrondissement) được đổi thành tỉnh (province) từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Khi đó, hạt tham biện Chợ Lớn trở thành tỉnh Chợ Lớn (province de Cholon). Tuy tỉnh Chợ Lớn là đơn vị hành chính riêng biệt với thành phố Chợ Lớn, nhưng tỉnh lỵ vẫn đặt chung trong thành phố Chợ Lớn (ville de Cholon). Vì lý do này mà trong nhiều thời kỳ vị Thị trưởng Chợ Lớn kiêm nhiệm luôn chức vụ Chủ tỉnh Chợ Lớn. Như vậy, Chợ Lớn là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Nghĩa là Sài Gòn và Chợ Lớn vẫn thuộc hai tỉnh, hai hệ thống hành chính, hai nền kinh tế chứ không nằm trong một tổng thể của Quy hoạch 1772 của tướng Nguyễn Cửu Đàm. Chỉ 11 năm sau, người Pháp biết mình sai lầm bởi khó mà tách rời Sài Gòn – Chợ Lớn trong thế bổ trợ cho nhau không chỉ an ninh, quốc phòng mà cả kinh tế. Năm 1910, Sài Gòn và Chợ Lớn được mở rộng thêm diện tích, sát nhập các xã thôn ở giữa thuộc 2 tỉnh Gia Định và Chợ Lớn, bắt đầu tiếp giáp nhau tại vị trí nay là đường Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuật. Sài Gòn cũng được mở rộng về phía Nam, bao gồm cả địa bàn quận 4 và một phần quận 7 ngày nay.

Hình. Một cây cầu ở Chợ Lớn. Vị trí cây cầu này nay ở trên đại lộ Đông Tây có nhiều thuyền, bè tập trung cho thấy sự giao thương nhộn nhịp tại khu vực (Emile Gsell, 1866)

Hình. Làng xóm của người Hoa bên kênh rạch ở Chợ Lớn. (Emile Gsell,1866)

        Năm 1909, thực dân Pháp lần lượt thiết lập các Sở đại lý (tương đương cấp quận) trực thuộc tỉnh Chợ Lớn, trong đó có các Sở đại lý Cần Giuộc và Rạch Kiến. Riêng Sở đại lý Đức Hòa được thành lập từ năm 1913. Tên gọi các Sở đại lý được lấy theo tên gọi nơi đặt lỵ sở lúc bấy giờ. Năm 1923, do lỵ sở dời từ Rạch Kiến về Cần Đước, Sở đại lý Rạch Kiến lại đổi tên thành Sở đại lý Cần Đước. Từ năm 1928, các Sở đại lý đều được chuyển thành các quận trực thuộc tỉnh Chợ Lớn.

2          Những ngày đầu thành lập

2.1      Thành lập bệnh viện Drouhet

Bệnh viện Drouhet được thành lập trên trục đường sắt chính nối hai đô thị lớn nhất Nam Kỳ là Sải Gòn và Chợ Lớn. BV Drouhet nằm ở phía Đông Chợ Lớn là nơi gần với Sài Gòn nhất. Trong khi ở Sài Gòn có bệnh viện quân đội (nay là bệnh viện Nhi Đồng 2).

        Bệnh viện Drouhet được lấy theo tên của Tổng thư ký thuộc địa (Secrétaire Général des colonie) Frédéric Edouard Drouhet (4/1/1907 – 31/12/1911). Chức vụ Tổng thư ký rất lớn, còn được gọi là Phó Toàn quyền, tức là chỉ sau chức Toàn Quyền. Toàn Quyền điều hành toàn Liên Bang Đông Dương còn gọi là Liên Bang Đông Pháp lúc bấy giờ.

Hình. Liên bang Đông Dương thuộc Pháp vào năm 1905. Bản đồ này bao gồm cả lãnh thổ của Xiêm (màu tím) thuộc “vùng ảnh hưởng” của Pháp.

        Khi tiến hành xâm chiếm Nam kỳ, người Pháp tổ chức hệ thống cai trị qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, từ 1861 đến 1879, người Pháp thành lập Soái phủ Nam kỳ (Gouvernement des Amiraux) do các đô đốc của Hải quân Pháp đứng đầu, trông coi việc cai trị hành chính và binh bị. Bắt đầu năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur-général de la Cochinchine) để cai trị mảnh đất thuộc địa này. Chức vụ thống đốc này trực thuộc bộ Thuộc địa và bộ Hải quân Pháp. Sau khi áp đặt chế độ bảo hộ, người Pháp đặt thêm chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d’Annam) và Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin). Hai người này trực thuộc bộ Ngoại giao Pháp. Ngày 17 tháng 10 năm 1887, viên Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Phủ Toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Phủ Toàn quyền Đông Pháp (Gouvernement général de l’Indochine Française). Toàn quyền Đông Pháp là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Riêng nước Đại Nam (phần đất Trung kỳ còn lại, đang chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp) thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối thượng, tất nhiên là trên danh nghĩa.

        Đứng đầu cả ba kỳ là: Thống đốc Nam kỳ (có sách gọi Thủ hiến), Khâm sứ Trung kỳ (có sách gọi Đại Trú sứ) và Thống sứ Bắc kỳ (có sách gọi Tổng Trú sứ), cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1900 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao và Quảng Châu Loan.

      Liên bang Đông Dương có diện tích lớn hơn Việt Nam ngày nay, cụ thể bao gồm sáu xứ: Nam Kỳ (Cochinchine), Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Lào (Laos), Campuchia (Cambodge) và Quảng Châu Loan (Kouang-Tchéou-Wan). Nhân danh Triều đình Huế, Pháp cũng chính thức kiểm soát Quần đảo Trường Sa và Quần đảo Hoàng Sa vào năm 1920 và tuyên bố chủ quyền vào năm 1921. Chức vụ toàn quyền được giao quyền lực rất lớn vì là người đứng đầu về hành chính lẫn quân sự.

Hình. Cổng Bệnh viện Drouhet (cổng Hồng Bàng) nay là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch

Hình. Bệnh viện Drouhet in trên bưu thiếp, ngày gửi được ghi là Cholon, năm 1910.

        Mặc dù đã qua nhiều lần đổi tên nhưng Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vẫn còn giữ được cổng bệnh viện từ khi thành lập, cổng cũ hiễn đang được cải tạo, phục chế theo đúng nguyên trạng và dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2020.

Hình. Bên trong Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, ảnh được đăng trong sách ảnh Ville de Cholon 1909. (Crespin, Ludovic)

(số bệnh nhân được nhận vào năm 1909: 357; số ngày nằm viện: 9.267 ngày)

2.2     Vị trí của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch

        Trên bản đồ Saigon-Cholon, năm 1952 chúng ta thấy Bệnh viện Drouhet nằm cuối của Boulevard Frédéric-Drouhet (nay là đường Hùng Vương) có lẽ cũng là lấy theo tên ông Tổng thư ký Drouhet. Đây là một con đường rất lớn và quan trọng vì là đường huyết mạch nối giữa trung tâm của thành phố Sài Gòn và trung tâm của Chợ Lớn, ngoài ra còn song song với đường ray xe lửa giữa Saigon và Cholon (bản đồ Sài Gòn, Chợ Lớn 1923).

Hình. Bản đồ Saigon-Cholon năm 1923 (toàn cảnh)

Hình. Bản đồ Saigon-Cholon 1923 (trích)

        Một chi tiết thú vị, khi xem bản đồ năm 1952 thì ta có thể thấy đường Rue de Hung Long, nay vẫn cón giữ được tên là đường Hưng Long đáng lý rất dài, cắt ngang qua đường Nguyễn Chí Thanh và giao đường Hồng Bàng ngày nay, và nằm bọc mặt phía Tây của Bệnh viện Drouhet thì nay đã bị ngắn lại. Đây có thể là phần ngăn cách của bệnh viện với nhà máy Bia Sài Gòn. Đường Hưng Long trong bản đồ Sài Gòn- Chợ Lớn năm 1952 cũng vẫn cho thấy nối tiếp từ Nguyễn Chí Thanh đến Hồng Bàng.

Hình. Bản đồ Saigon-Cholon, năm 1952 (toàn cảnh)

Hình. Bản đồ Saigon-Cholon, năm 1952 (trích)

 

        Nếu tiếp tục xem xét kỹ hơn bản đồ Saigon-Cholon 1923 và năm 1952, ta có thể thấy cấu trúc sơ bộ của Bệnh viện Drouhet (hay Bv Ng-Van-Thinh) vào năm 1952. Bản đồ còn vẽ thể hiện được một số khối nhà và công viên bên trong bệnh viện và giúp ta phán đoán được Bệnh viện Drouhet có diện tích khá lớn, nhiều khả năng là lớn hơn Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ngày nay, đặc biệt về phía đường Nguyễn Chí Thanh và bao gồm cả Bệnh viện Truyền máu – Huyết học, cơ sở 2 ở góc đường Hồng Bàng và Ngô Quyền.

        Phía Công viên Văn Lang lúc năm 1952, là hình vẽ của một nhà thờ. Còn đối diện Bệnh viện Drouhet là “Inspection de Cholon”, tức Tòa Tham biện Chợ Lớn, nay là Bệnh viện Đại Học Y Dược.

        Cần biết thêm là Tòa tham biện có một vị trí rất quan trọng trong cơ cấu chính quyền thuộc địa lúc bấy giờ, vì giữ nhiệm vụ coi một “hạt” (trước 1900) hoặc một tỉnh (sau năm 1900). Các nhiệm vụ chính của Tham biện:

        “Tại các địa hạt, các sự vụ bản xứ do tham biện điều khiển và có nhân viên dưới quyền làm các việc nhỏ mọn về hành chính và cảnh sát như phủ, huyện, cai tổng và xã trưởng các làng. Cho tới năm 1874, các tham biện lo các sự vụ bản xứ (sau gọi chủ tỉnh) đầu lựa chọn trong giới sĩ quan thuộc mọi ngành (hải quân). Nhưng từ khi công bố nghị định mới ngày 1 tháng 2 năm 1873, các tham biện hậu bổ phải được chọn trong giới thanh niên có cấp bằng đại học và tuổi từ 28 trở lên. Các tham biện giữ nhiệm vụ xét xử mọi vụ kiện bản xứ thuộc tòa sơ thẩm.”

Hình. Tòa tham biện Cholon, đối diện Bệnh viện Drouhet (Inspection de Cholon)

        Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên gọi “hạt” thành “tỉnh” (province) và chia Nam Kỳ thành 3 miền. Đồng thời, chức Tham biện đổi thành Chủ tỉnh (Chef-province hoặc Chef de la province), tòa tham biện gọi là tòa bố. Ngày 11/05/1944, Nam Kỳ thành lập tỉnh Tân Bình, từ phần đất cắt ra của tinh Gia Định, lúc này Nam Kỳ lúc này có 21 tỉnh.

        Như vậy Bệnh viện Drouhet nằm đối diện một cơ quan hành chính, điều hành hầu hết những công việc quan trọng của tỉnh. Do đó có thể thấy được vị trí rất quan trọng của Bệnh viện Drouhet trong bối cảnh Saigon-Cholon lúc bấy giờ.

3         Sự phát triển và quá trình đổi tên

3.1      Đổi tên từ Bệnh viện Drouhet (1906 – 1946) thành Bệnh viện Nguyễn Văn Thinh (Khoảng 1946 – 1962)

        Bệnh viện Drouhet – tiền thân của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, ngoài các tên như là Bệnh viện Hồng Bàng hay Bệnh viện Ngô Quyền có thời gian được đổi tên thành Bệnh viện Nguyễn Văn Thinh.

        Bằng chứng là trong cả 2 tấm bản đồ về đô thị Saigon-Cholon vào năm 1923 và 1952 cho thấy rõ điều này. Bệnh viện Drouhet lúc này đã được đổi tên thành “BV Ng-Van-Thinh”, một trong 2 tấm bản đồ còn cẩn thận chú thích rất rõ “BV Ng-Van-Thinh (BV Drouhet) “. Có lẽ ngay sau khi mang tên Bệnh viện Drouhet, thì Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch đã được đổi tên là Bệnh viện Nguyễn Văn Thinh.

        Vậy ông Nguyễn Văn Thinh là ai?

        Về ông Nguyễn Văn Thinh: ông sinh năm 1888; qua đời 10 tháng 11 năm 1946. Ông là một bác sĩ và chính trị gia người Việt giữa thế kỷ 20.  Ông sinh năm 1888, trong một gia đình đại điền chủ Nam Kỳ, có quốc tịch Pháp. Vốn theo học Tây học từ nhỏ, đậu thủ khoa khóa đầu tiên Trường Đại học Y khoa Đông Dương năm 1907 rồi sau đó sang Pháp theo học tại Y Khoa Đại học Đường Paris (Faculté de Médecine de Paris) lấy bằng bác sĩ y khoa Pháp. Trường Y khoa Đông Dương (École de Médecine de l’Indochine) do Pháp thành lập năm 1902. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là Bác sĩ Alexandre Yersin. Năm 1906, Toàn quyền Đông Dương Paul Beau thành lập Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương trở thành một trường thành viên của Viện Đại học Đông Dương và vẫn tiếp tục đào tạo sau khi viện đại học này tạm ngừng hoạt động từ năm 1908. Sau này trở thành Trường Đại học Y Hà Nội.

        Ông Thinh là một trong những người Việt Nam hiếm hoi đầu tiên thi đỗ bác sĩ nội trú tại Bệnh viện Paris (Interne des Hôpitaux de Paris). Sau đó ông làm việc tại Viện Pasteur (Paris) và viết luận án tốt nghiệp bác sĩ tại đây. Ông Nguyễn Văn Thinh cũng là thủ tướng đầu tiên kiêm Bộ trưởng Nội vụ của chính phủ Cộng hòa tự trị Nam Kỳ. Bác sĩ Thinh làm thủ tướng chính phủ Nam Kỳ tự trị vào ngày 26 tháng 3 năm 1946. Chưa đầy 8 tháng sau đó, ngày 10 tháng 11 năm 1946, sau khi nhận thấy mình đã bị Pháp lừa và lợi dụng, ông đã tự tử bằng cách thắt cổ. Trước năm 1975 ở Sài Gòn có một con đường mang tên Nguyễn Văn Thinh nay là đường Mạc Thị Bưởi.

3.2       Đổi tên và Bệnh viện Hồng Bàng (1962 – 1987)

        Về thời gian đổi tên Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ Bệnh viện Nguyễn Văn Thinh thành Bệnh viện Hồng Bàng trước năm 1962, do một bản đồ từ năm 1962 đã cho thấy khu vực Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ngày nay đã mang tên là Bệnh viện Hồng Bàng.

Hình. Cổng Bệnh viện Hồng Bàng được đổi tên từ Bệnh viện Nguyễn Văn Thinh.

        Đến năm 1966, bản đồ “Saigon Tan Son Nhut” in năm 1966, cho thấy danh sách các bệnh viện tại Sài Gòn và Chợ Lớn gồm có:

1.Bảo sanh Viện Hùng Vương – Bệnh viện Hùng Vương ngày nay

2.Bảo Sanh viện Từ Dũ – Bệnh viện Từ Dũ ngày nay

3.Bệnh viện Bình Dân

4.Bệnh viện Chợ Quán

5.Bệnh viện Chợ Rẫy

6.Bệnh viện Grall – Bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay

7.Bệnh viện Hùng Vương – Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ngày nay

8.Bệnh viện Nhi Đồng – Bệnh viện Nhi Đồng 1 ngày nay

9.Bệnh viện Phúc Kiến

10.Bệnh viện Sài Gòn

11.Bệnh viện Thanh Quan

12.Bệnh viện Triều châu

13.Dưỡng đường St Paul

Hình. Bản đồ Bệnh viện Hùng Vương 1966, không thể hiện rõ đoạn đường Hưng Long nối từ Nguyễn Chí Thanh qua Hồng Bàng, không thấy rõ bờ tây của Bệnh viện Hùng Vương

        Năm 1966, đường Ngô Gia Tự mang tên Đại Lộ Minh Mạng; đường Nguyễn Chí Thanh là Đại Lộ Đại Tá Trần Hoàng Quân. Phía Tây của bệnh viện không rõ ranh giới. Gần Bệnh viện Hùng Vương thời đó là Bộ tư lệnh địa phương quân đối diện trường Đại học Y là Hùng Vương Plaza ngày nay.

3.3       Đổi tên là Trung tâm lao và Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (1987 –  1997)

        Năm 1987, sáp nhập Trạm Lao vào Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và đổi tên thành Trung Tâm Lao và Bệnh Phổi Phạm Ngọc Thạch trực thuộc Sở Y Tế Tp. Hồ Chí Minh theo quyết định số 85/QĐ-UB của Ủy Ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh ngày 31 tháng 3 năm 1987.

        Ngày 10/10/1996, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch được xếp hạng I. Tháng 3-1997, quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ, thành lập các trung tâm y tế chuyên sâu ở Tp. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là một thành viên.

Hình. Tiến sĩ Bác sĩ Phạm Duy Linh, Giám đốc trung tâm lao bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch phát biểu khai mạc lễ kỷ niệm 10 năm xây dựng và phát triển

3.4        Đổi tên là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (1997 – nay)

 

hinhkhuongvien
hinh bac thach cu

Hình. Tượng đài Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tại trung tâm bệnh viện

       Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện chuyên khoa hạng 1 về Lao và bệnh Phổi, được xếp cấp chuyên môn kỹ thuật ở cấp: “khám bệnh, chữa bệnh chuyên sâu” trực thuộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh. Theo Thông báo số 231/TB-SYT ngày 07/01/2025 của Sở Y tế Tp. Hồ Chí Minh về kết quả xếp cấp chuyên môn kỹ thuật các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và Quyết định số 2024/QĐ-UBND ngày 21/05/2025 của Ủy Ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh về việc xếp hạng Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trực thuộc Sở Y tế.

       Theo quyết định phân công công tác chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, ban hành kèm theo Quyết định số 4026 /QĐ-BYT ngày 20 tháng 10 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện đầu ngành, phụ trách chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh cho chuyên khoa Lao và Bệnh Phổi các tỉnh/thành phố Miền Nam. Bệnh viện là cơ sở thực hành của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Học viện Quân Y, Khoa Y Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Y Đại học Tân Tạo, Đại học Hồng Bàng, Đại học Miền Nam, Cao đẳng Nguyễn Tất Thành, Cao đẳng Phương Nam,…

4          Ban Giám đốc Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch qua các thời kỳ

Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch tiền thân là Bệnh viện Hồng Bàng được xây dựng từ năm 1906, đây là cơ sở điều trị nội trú duy nhất bệnh lao của miền nam. Sau khi tiếp quản được đổi tên là Viện Chống Lao Miền Nam, trực thuộc Bộ Y tế. Cán bộ đầu tiên đến tiếp quản và điều hành hoạt động bệnh viện là:

Bác sĩ Nguyễn Sơn Hà

Bác sĩ Nguyễn Văn Định

Bác sĩ Nguyễn Văn Oánh

Biên chế 229 công chức (30BS, 10DS)

BS Nguyễn Sơn Hà

BS Nguyễn Văn Oanh Phó giám đốc bệnh viện và vợ BS Nguyễn Thị Hồng trưởng khoa lao nữ

Bác sĩ giám đốc Nguyễn Sơn Hà và các vị lãnh đạo

4.1       Giai đoạn 1977 – 1986

        Bộ Y Tế giao toàn bộ cơ sở vật chất về cho Ủy Ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Dưới sự quản lý trực tiếp của Sở Y Tế.

Giám đốc

BS Nguyễn Sơn Hà

        Các Phó Giám Đốc:

        Thời gian đầu, công tác phòng chống bệnh lao của Tp. Hồ Chí Minh do Trạm Lao thành phố đảm nhận. Trạm trưởng trạm chống lao Tp. Hồ Chí Minh: BS Lê Quang Quới, BS Trần Xuân Thu.

        Từ năm 1986, triển khai Chương Trình Chống Lao cấp 2 tại Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh B2. Ngoài việc khám và điều trị bệnh lao. Bệnh viện phải tập trung xây dựng mạng lưới phòng chống lao ở các địa phương thuộc khu vực B2. Tổ chức điều tra cơ bản ở 1 số tỉnh phía nam, điểm xuất phát nghiên cứu đầu tiên là Quận 5, Quận 10 Tp. Hồ Chí Minh, Huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, Trảng Bàng Tây Ninh…, TS. BS. Phạm Duy Tín (người tiến sĩ duy nhất hoc tại Tiệp Khắc) trưởng phòng chỉ đạo tuyến, phụ trách công tác này.

4.2        Giai đoạn 1987 – 1997

        Năm 1987, sáp nhập Trạm Lao vào Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và đổi tên thành Trung Tâm Lao và Bệnh Phổi Phạm Ngọc Thạch trực thuộc Sở Y Tế Tp. Hồ Chí Minh theo quyết định số 85/QĐ-UB của Ủy Ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh ngày 31 tháng 3 năm 1987.

Giám đốc Trung tâm lao bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch

BS Phạm Duy Linh (giai đoạn: 1986 – 7/1998)

        Các Phó Giám Đốc:

 

        Năm 1989, triển khai chương trình hóa trị liệu ngắn ngày tại Tp. Hồ Chí Minh (6 điểm) và các tỉnh B2 (1991).

        Tháng 12/1995 Chương Trình Chống Lao Quốc Gia được thành lập, cũng là lúc mạng lưới phòng chống lao ở các tỉnh phía Nam đã hình thành và đi vào hoạt động. Các bệnh nhân lao đều được khám, chẩn đoán và quản lý điều trị tại tuyến quận huyện, phường xã.

        Ngày 10/10/1996, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch được xếp hạng I. Tháng 3-1997, quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ, thành lập các trung tâm y tế chuyên sâu ở Tp. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là một thành viên.

Hình: TS. BS. Phạm Duy Linh, Giám đốc Trung tâm lao bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch phát biểu khai mạc lễ kỷ niệm 10 năm xây dựng và phát triển Trung tâm lao bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch.

4.3        Giai đoạn 1998 – 2007

Giám đốc

BS. CKI. Hoàng Thị Quý

       Các Phó Giám Đốc:

        Nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn này: tập trung vào việc triển khai xây dựng mũi nhọn chuyên sâu và 7 nhiệm vụ của bệnh viện hạng I:

1.Cấp cứu, khám và chữa bệnh cho nhân dân Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam với 750 giường nội trú và 1000 giường ngoại trú.

2.Đào tạo cán bộ y tế: Bệnh viện là cơ sở thực hành duy nhất để đào tạo cán bộ y tế chuyên khoa lao và bệnh phổi ở các bậc từ trung học, đại học, sau đại học. Đào tạo liên tục cho các thành viên làm công tác phòng chống lao ở cách tuyến quận, huyện Tp. Hồ Chí Minh và các tuyến tỉnh từ Ninh Thuận đến Cà Mau. Đào tạo lại để nâng cao chất lượng cán bộ trong bệnh viện để đáp ứng nhu cầu.

3.Nghiên cứu khoa học về y học, tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các đề tài nghiên cứu về khoa học cơ bản, các đề tài nghiên cứu dịch tễ cộng đồng trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu thuộc lĩnh vực chuyên nghành hô hấp.

4.Chỉ đạo tuyến dưới về xây dựng mạng lưới, chuyên môn kỹ thuật, giáo dục truyền thông, kiểm tra giám sát, cung cấp trang thiết bị thuốc men cho các tỉnh khu vực B2 theo phân cấp của Bộ Y Tế.

5.Phòng bệnh: Xậy dựng, hướng dẫn các cơ sở phòng chống lao về công tác truyền thông giáo dục sức khỏe cho cộng đồng, tham gia thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh, thảm họa.

6.Mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức và các nhân theo đúng quy định của Nhà nước trong việc nghiên cứu khoa học và đào tạo huấn luyện cho cán bộ phòng chống lao trong nước và quốc tế (khu vực Châu Á Thái Bình Dương), tiếp nhận sinh viên nước ngoài thực tập tại bệnh viện, tổ chức hội nghị khoa học, hội thỏa quốc tế, các lớp kỹ thuật chuyên sâu về hô hấp cho các bệnh viện đa khoa.

7.Quản lý kinh tế trong bệnh viện có hiệu quả và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của nhà nươc về thu-chi ngân sách, viện phí, viện trợ. Từng bước hạch toán, tự chủ từng phần theo chủ trương của nhà nước, tạo thêm nguồn kinh phí để phục vụ người bệnh và nâng cao đới sống cán bộ công nhân viên.

Hình ảnh: Ban giám đốc Bệnh viện Phạm Ngọc 1998-2007

4.4        Giai đoạn 2008 – 2015

Giám đốc

TS. BS. Nguyễn Huy Dũng

        Các Phó Giám Đốc:

4.5        Giai đoạn 2015 – nay

GIÁM ĐỐC

TS. BS. Nguyễn Hữu Lân

5          Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ngày nay

Hình. Cổng Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ngày nay.

        Trải qua hơn 114 năm hình thành và phát triển, qua hai cuộc kháng chiến đến nay Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện chuyên khoa hạng 1 về Lao và bệnh Phổi, được xếp cấp chuyên môn kỹ thuật ở cấp: “khám bệnh, chữa bệnh chuyên sâu” trực thuộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh. Theo Thông báo số 231/TB-SYT ngày 07/01/2025 của Sở Y tế Tp. Hồ Chí Minh về kết quả xếp cấp chuyên môn kỹ thuật các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và Quyết định số 2024/QĐ-UBND ngày 21/05/2025 của Ủy Ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh về việc xếp hạng Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trực thuộc Sở Y tế.

         Theo quyết định phân công công tác chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, ban hành kèm theo Quyết định số 4026 /QĐ-BYT ngày 20 tháng 10 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện đầu ngành, phụ trách chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực khám, chữa bệnh cho chuyên khoa Lao và Bệnh Phổi các tỉnh/thành phố Miền Nam. Bệnh viện là cơ sở thực hành của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Học viện Quân Y, Khoa Y Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Y Đại học Tân Tạo, Cao đẳng Nguyễn Tất Thành… Bệnh viện là nơi hoạt động nghề nghiệp của một tập thể 944 nhân viên y tế có tay nghề cao cả nội và ngoại khoa trong lĩnh vực lao và bệnh phổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phẫu thuật lồng ngực, chẩn đoán và hoá trị ung thư phế quản phổi, bệnh phổi không lao và lao.

Hình. Cổng Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trên đường Ngô Quyền.

        Bệnh viện luôn trong tình trạng sẵn sàng ứng phó với dịch Cúm A/H1N1, H5N1, Ebola, MERS-CoV, cũng như các thiên tai dịch họa khác theo sự chỉ đạo của Sở Y tế Tp. Hồ Chí Minh. Chỉ có 30-35% bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là người dân thường trú tại Tp. Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn 2016 đến 6 tháng đầu năm 2019, nhóm bệnh lao chiếm khoảng 35,6%; nhóm bệnh phổi không lao (viêm phổi không lao, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, dãn phế quản…) chiếm khoảng 30,8%; nhóm bệnh ung thư chiếm khoảng 19,4%; nhóm bệnh HIV chiếm khoảng 2,9%; 11,3% còn lại là các bệnh khác (Phụ lục 2). Việc kiểm soát nhiễm khuẩn thực hiện tốt thông qua việc bố trí các khu chức năng riêng biệt theo quyết định số 4019/QĐ-SYT ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Giám đốc Sở Y tế Tp. Hồ Chí Minh: khu Kỹ thuật cao (gồm có 04 Khoa cận lâm sàng: Chẩn đoán hình ảnh, Vi sinh, Sinh hoá huyết học, Giải phẫu bệnh, khoa Ngoại lồng ngực 2 với 42 giường bệnh, 01 Khoa Khám phục vụ khám trung bình 1.300 lượt bệnh nhân/ngày và 16 giường bệnh điều trị ban ngày); khu Bệnh phổi (gồm các khoa A3, A4, A5, A6 tổng cộng 212 giường bệnh, 01 Khoa Cấp cứu – Hồi sức tích cực – Chống độc tổng cộng 66 giường bệnh, khoa Hóa trị Ung thư có 93 giường bệnh); khu Kỹ thuật chuyên sâu chuyên chẩn đoán, điều trị bệnh phổi không lây nhiễm (gồm các khoa C4, C5, C6 tổng cộng 78 giường bệnh, 01 Khoa Cấp cứu Ngoại chẩn có 110 giường bệnh,  khoa Gây mê Hồi sức có 15 giường bệnh, khoa Ngoại lồng ngực 1 có 47 giường bệnh), khoa Dịch vụ điều trị bệnh phổi có 24 giường bệnh,  01 Khoa Nhi tổng cộng 33 giường bệnh + 05 giường Điều trị trong ngày,  khu lao (gồm các khoa B1, B2, B3, B4 tổng cộng 191 giường bệnh),  01 Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, 01 Khoa Phục hồi Chức năng, 01 Khoa Dược.

Hình. Nhà thuốc của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch rộng, sạch, tiện ích phục vụ người bệnh

        Thực hiện chủ trương tăng cường điều trị ngoại trú (từ tháng 6/2018 đến nay, toàn bệnh viện có 34 phòng khám ngoại trú, so với đầu năm 2015 chỉ có 19 phòng khám ngoại trú), hạn chế điều trị nội trú thông qua việc xem xét đúng chỉ định nhập viện và giảm số ngày điều trị trung bình của 1 bệnh nhân xuất viện (từ 15,1 ngày / bệnh nhân năm 2015 giảm còn 13,8 ngày/ bệnh nhân trong 9 tháng đầu năm 2019), tăng cường chuyển bệnh nhân đã được chẩn đoán chính xác, tình trạng bệnh ổn định về quản lý và điều trị -tại tuyến y tế cơ sở, tích cực tuyển dụng nhân viên vào làm việc tại tất cả các khoa, phòng chức năng. Số liệu thống kê cho thấy, so với giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ bệnh nhân lao giảm từ 59,5% xuống còn 35,6% trong giai đoạn 2016 đến 6 tháng đầu năm 2019 và tăng tỷ lệ bệnh nhân bệnh phổi không lao và ung thư. Tuy nhiên, tổng số lượt bệnh nhân đếm khám ngoại trú vẫn tăng hàng năm (số lượt bệnh nhân khám bệnh năm 2018 tăng 25,5% so với năm 2015, trung bình tăng 13,8%/năm kể từ năm 2015). Số lượt bệnh nhân điều trị nội trú cũng tăng hàng năm so với năm 2014.

Hình. Năm 2018 Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vinh dự được nhận cờ thi đua của Bộ Y tế trao cho đơn vị xuất sắc trong phong trào thi đua.

        Bệnh viện thường xuyên mở các lớp tập huấn, đào tạo liên tục, hội thảo, hội nghị chuyên đề bệnh lao, bệnh phổi không lao, ung thư phổi, phẫu thuật lồng ngực, xét nghiệm, chỉ đạo tuyến, công nghệ thông tin… nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho nhân viên bệnh viện và các cơ sở y tế khác có liên quan đến lĩnh vực lao và bệnh phổi.

adadas
adadas

       Hình. Các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế chuyên đề bệnh lao, bệnh phổi không lao, ung thư phổi, phẫu thuật lồng ngực…tổ chức tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch

Bệnh viện thực hiện công tác chuyển giao kỹ thuật cho các bệnh viện tuyến dưới theo đề án 1816 tại tại các tỉnh/thành phố Miền Nam.

6          Tài liệu tham khảo

  1. Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, kỷ yếu
  2. Ký ức Sài Gòn – Chợ Lớn xưa, tạp chí kiến trúc, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/ky-uc-sai-gon-cho-lon-xua.html
  3. Annuaire général de l’Indo-Chine française [“puis” de l’Indochine] 1911, https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k56041001/f355.image.r=Province%20de%20Giadinh.langEN
  4. Doumer, Paul. (1905). L’Indochine française: souvenirs, Vuibert et Nony.